Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Tìm hiểu phương pháp châm cứu chữa đau lưng

0 nhận xét
Có 2 loại đau lưng là đau lưng cấp tính và đau lưng mãn tính. Nguyên nhân đau lưng cấp tính có thể do các trấn thương tai nạn, gãy xương sống, dây chằng cột sống bị viêm, chèn ép vào dây thần kinh, hoặc do làm việc sai tư thế. Còn đau lưng mãn tính có thể do mắc các bệnh thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm, do thống kinh..




Nếu đau lưng, hãy nghĩ tới những cây kim. Bởi các chuyên gia phát hiện ra rằng liệu pháp đông y này điều trị đau lưng tốt hơn bất cứ phương pháp nào. Vì theo Đông y, khi các mao mạch, mạch máu bị tắc nghẽn không thông, dẫn đến đau nhức, khi châm cứu vào các huyệt đạo, thì chính các cây kim có tác dụng đả thông những chỗ tắc nghẽn này nên giảm đau rất tốt.

Phải đến 85% chúng ta đã từng có cảm giác đau nhói một vài lần nào đó. Chỉ riêng tại Anh, đau lưng tiêu tốn khoảng 500 triệu bảng (tương đương với khoảng 750 triệu đô la Mỹ) mỗi năm.

Một nghiên cứu cho thấy châm cứu là dùng các cây kim đặc biệt xuyên vào các huyệt đạo trên cơ thể, giúp giảm đau hiệu quả hơn hẳn các các điều trị khác.

Hàng trăm người bị đau thắt lưng mãn đã tham gia vào nghiên cứu. Họ được chia thành 4 nhóm. Nhóm thứ nhất chỉ châm cứu 1 lần, nhóm thứ 2 điều chị theo liệu trình, nhóm thứ 3 là châm cứu bằng kim điện cực và nhóm cuối cùng dùng các phương pháp tây y.

Sau 8 tuần, tình trạng đau lưng của 60% những người được châm cứu có sự cải thiện. Trong khi phương pháp thông thường là 39%. Sau 1 năm, 59 – 69% người được điều trị bằng châm cứu báo cáo kết quả cải thiện đáng kể, so với 50% ở những người dùng phương pháp thông thường.

Nhà nghiên cứu, TS Daniel Cherkin cho biết: Tất cả các hình thức châm cứu đều có hiệu quả và tác động lâu dài đối với chứng đau lưng mãn” khi so với phương pháp thông thường.

Với nghiên cứu này, châm cứu hứa hẹn sẽ trở thành một lựa chọn quan trọng trong điều trị đau lưng mãn. Bởi châm cứu không chỉ an toàn, ít tác dụng phụ mà còn có tác dụng lâu dài.

Trước đây, các nhà khoa học thuộc Đại học York (Anh) cũng đã cho thấy châm cứu có thể giúp giảm chứng đau lưng cho các bệnh nhân trong thời gian dài. Những người châm cứu 10 lần trong 3 tháng đã giảm các cơn đau lưng trong suốt 2 năm sau đó và dùng ít thuốc giảm đau hơn so với những ai không được chữa trị bằng phương pháp này.

Các bệnh về lưng có thể được điều trị bằng thuật châm cứu:

Có rất nhiều căn bệnh về lưng có thể được điều trị bằng thuật châm cứu để giảm đau và thúc đẩy quá trình phục hồi.

+ Bong gân lưng có thể bị gây ra bởi căng dây chằng và hoặc căng cơ, tình trạng các cơ bị xé ra. Có rất nhiều nguyên nhân bị bong gân lưng như nâng vật nặng hoặc thực hiện các hoạt động hàng ngày không đúng tư thế. Châm cứu có thể giúp quá trình phục hồi các chấn thương này diễn ra nhanh hơn.

+ Thoát vị đĩa đệm – một căn bệnh gây rất nhiều đau đớn. Đó là khi đĩa đệm giữa 2 đốt sống nhô ra ngoài, chèn vào các dễ dây thần kinh gây đau. Châm cứu có thể là một giải pháp tuyệt vời cho loại đau lưng này.

+ Đau dây thần kinh tọa. Điều này xảy ra khi một cơn đau nhói lên từ mông rồi chạy xuống cẳng chân. Cơn đau này là do áp lực tác động vào dây thần kinh tọa. Căn bệnh gây rất nhiều phiền toái và giảm khả hiệu quả hoạt động và làm việc hàng ngày. Châm cứu là một biện pháp hữu hiệu điều trị liên quan đến đau dây thần kinh tọa, giúp giảm đau, tăng khả năng hoạt động và làm việc.

Nếu như bạn định thử phương pháp châm cứu để điều trị đau dây thần kinh tọa, nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi quyết định. Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng châm cứu không nhất thiết phải tác động lên vùng lưng có vấn đề vì dòng năng lượng có thể được dẫn hoặc kích thích từ phần khác của cơ thể như chân hoặc cổ.
Lưu ý: Phương pháp châm cứu cũng chỉ với mục đích chính là giảm đau, làm cho người bệnh thấy nhẹ nhàng hơn trong các cơn đau lưng, phương pháp này chỉ đi chữa được phần ngọn, phần triệu chứng của bệnh mà không chữa dứt điểm được. Tốt hơn hết bệnh nhân nên kết hợp phương pháp này với điều trị bằng thuốc Đông y, khi đó bệnh này mới điều trị dứt điểm được.

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

Nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống

0 nhận xét
Thoát vị đĩa đệm gây nên những cơn đau khó chịu, gây tê mỏi lưng, chạy dọc xuống hai chân, bệnh này thường xuyên tái phát, làm giảm khả năng vận động, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống. Nếu không điều trị bệnh có thể gây biến chứng nặng nề như teo cơ, tàn phế, tiểu tiện không kiểm soát… Vậy nguyên nhân và cách phòng tránh căn bệnh này như thế nào?

Nguyên nhân gây bệnh

Có nhiều nguyên nhân gây nên thoát vị đĩa đệm cột sống, trong đó chủ yếu là do chấn thương cột sống như tai nạn giao thông, tai nạn lao động; tư thế làm việc không đúng cách, thường xuyên phải mang vác nặng gây quá khả ngăng chịu đựng của cột sống …


Ở những người trên 30 tuổi, cột sống bắt đầu thoái hóa đĩa đệm thường không còn mềm mại, nhân nhày có thể bị khô, vòng sụn bên ngoài xơ hóa, rạn nứt và có thể rách khi nếu có một lực tác động mạnh vào cột sống. Hay gặp nhất là việc bê vác vật nặng sai tư thế. Thay vì ngồi xuống bê vật rồi từ từ đứng lên, nhiều người có thói quen đứng rồi cúi xuống, nhấc vật nặng lên. Việc mang vác nặng sai tư thế này dễ gây chấn thương đốt sống lưng, làm đĩa đệm thoát vị ra ngoài.

Nhiều thói quen sinh hoạt hàng ngày cũng ảnh hưởng xấu tới xương khớp như tư thế ngồi làm việc không đúng cách gây cong vẹo cột sống, tập thể dục không đúng cách gây thoái hóa khớp, trật khớp… Ngoài ra, các bệnh lý cột sống bẩm sinh như gai đôi cột sống, gù vẹo, thoái hóa cột sống cũng là các yếu tố thuận lợi gây thoát vị đĩa đệm.

Thoát vị đĩa đệm xảy ra bất kỳ phần nào của cột sống như phần cột sống cổ, cột sống thắt lưng, trong đó chủ yếu thoát vị cột sống thắt lưng. Nếu không được điều trị có thể để lại những hậu quả và những biến chứng nguy hiểm cho người bệnh. Bệnh nhân có thể bị tàn phế suốt đời do bị liệt trong trường hợp đĩa đệm thoát vị chèn ép tủy cổ. Khi bị chèn ép các dây thần kinh vùng thắt lưng cùng, bệnh nhân có thể bị chứng đại tiểu tiện không tự chủ do rối loạn cơ trơn. Ngoài ra bệnh nhân bị teo cơ các chi nhanh chóng, khiến sinh hoạt bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí mất khả năng lao động.

Các biện pháp phòng tránh

- Luôn duy trì chế độ ăn uống, sinh hoạt, làm việc, nghỉ ngơi hợp lý; thường xuyên tập thể dục rèn luyện đề có một cơ thể khỏe mạnh và cột sống vững chắc.

- Giữ gìn tư thế cột sống đúng trong sinh hoạt hằng ngày (ngồi học, ngồi làm việc, mang vác vật nặng đúng cách,..). Trẻ em cần ngồi học đúng tư thế, tránh mang vác nặng, điều đó giúp phòng tránh tật gù vẹo cột sống, là một yếu tố nguy cơ gây thoát vị đĩa đệm. Cần chú ý tránh khiêng vác vật nặng, nhất là bê vật nặng ở tư thế cúi lom khom. Ngồi lâu kéo dài trong tư thế gò bó cũng ảnh hưởng tiêu cực đến cột sống thắt lưng và cũng là yếu tố nguy cơ thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Do vậy sau khi ngồi làm việc khoảng 1 giờ cũng nên đứng dậy đi lại, nghỉ ngơi khoảng 10 phút.

- Hạn chế mọi nguy cơ bị chấn thương cho cột sống khi lao động, tham gia giao thông, các vận động, động tác thể thao quá mức và kéo dài ...

Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

Các bệnh xương khớp

0 nhận xét
Khi thời tiết chuyển mùa, nhất là từ mùa nóng sang mùa lạnh, các bệnh lý về khớp ở người cao tuổi thường xuất hiện. Vì khi đó, độ ẩm trong không khí tăng cao, cơ thể sẽ tạo ra phản ứng để thích ứng với thời tiết bằng cách co các mạch máu ngoại vi từ đó làm giảm tưới máu cho các cơ quan ngoại biên trong đó có da, cơ, khớp nên gây ra các biểu hiện như: đau mỏi cơ xương khớp, co cứng cơ vùng vai gáy, thắt lưng.

Trong giai đoạn chuyển mùa này, người già thường bị đau nhức bởi các chứng bệnh sau:

Bệnh thấp khớp cấp

Thấp khớp cấp là bệnh mắc phải khi nhiễm liên cầu khuẩn beta nhóm A vùng hầu họng, nó gây tổn thương vĩnh viễn các van tim đưa đến suy tim. Bệnh có nhiều tên gọi khác như viêm khớp cấp do thấp, sốt thấp, thấp tim.

Bệnh xuất hiện sau khi nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, đặc biệt là viêm họng với những biểu hiện như: đau họng, sốt cao, nếu không điều trị kịp thời và triệt để thì sau đó vài tuần có thể sẽ xuất hiện các dấu hiệu của bệnh thấp khớp cấp như sốt, đau khớp. Lúc đầu thường đau ở các khớp lớn như khớp gối, khớp khuỷu tay, khớp cổ chân, cổ tay, ít gặp viêm các khớp nhỏ ở bàn tay, bàn chân hoặc viêm một khớp đơn độc với các dấu hiệu như: sưng, nóng, đỏ đau, không đối xứng. Đau sẽ di chuyển từ khớp này sang khớp khác, khi chuyển sang khớp mới, khớp cũ hết đau, không để lại di chứng tại khớp, các khớp bị viêm có thể có dịch nhưng không bao giờ bị hóa mủ. Viêm khớp có thể tự khỏi nhưng nếu có dùng thuốc chống viêm thì chúng sẽ khỏi rất nhanh.


Đây là bệnh do vi trùng gây ra, xuất phát từ ổ nhiễm trùng vùng họng do đó biện pháp phòng ngừa thấp khớp cấp hữu hiệu nhất là phải điều trị kịp thời, triệt để khi phát hiện khi bị viêm họng.

Viêm đa khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là một bệnh tự miễn dịch, viêm mạn tính tổ chức liên kết màng hoạt dịch, tổn thương chủ yếu ở khớp ngoại vi, bệnh tiến triển từ từ, dẫn đến teo cơ biến dạng dính và cứng khớp.

Bệnh chủ yếu gặp ở nữ giới, đây là tình trạng viêm khớp kéo dài với các đợt sưng, nóng, đỏ, đau ở nhiều khớp, thường gặp nhất là các khớp nhỏ ở bàn tay, khớp cổ tay, khuỷu, gối, cổ chân, bàn ngón chân, cả 2 bên. Nếu không được điều trị, các khớp nhanh chóng bị biến dạng, dính khớp. Khi bệnh ở vào giai đoạn muộn thường gặp ở các khớp như vai, háng, cột sống cổ với các biểu hiện như vào buổi sáng, sau khi mới ngủ dậy, người bệnh thấy có cảm giác đau và cứng tại các khớp bị viêm, khó vận động. Dấu hiệu này thường gặp ở các khớp cổ tay và bàn tay, khiến người bệnh phải làm các động tác như gấp, xoay cổ tay… trong một thời gian dài các khớp mới có thể hoạt động trở lại bình thường. Sau những đợt sưng đau khớp kéo dài có thể vài tháng đến vài năm, các khớp này sẽ bị biến dạng như bàn tay bị vẹo, cổ tay sưng, các ngón tay ngón chân cũng bị biến dạng, các cơ teo; từ đó làm cho người bệnh rất khó khăn trong việc vận động, thậm chí ở giai đoạn muộn, bệnh nhân trở thành tàn phế.

Viêm đa khớp dạng thấp là bệnh rất khó chữa khỏi, vì đây là bệnh của hệ thống tự miễn tức là do cơ thể tự sinh ra những chất chống lại chính khớp và gây đau. Vì là bệnh tự miễn nên việc điều trị thường là kéo dài từ 1 - 2 tháng đến vài năm và có khi là điều trị suốt đời. 

Bệnh gout

Bệnh gout là tình trạng viêm khớp những biểu hiện như đau nhức, sưng, đỏ, và nóng. Nó gây khó cử động khớp tại một hay nhiều khớp.Nếu không điều trị, các cơn đau sẽ tái diễn thường xuyên và gây thương tổn khớp, gân, và các mô khác chung quanh khớp.Bệnh gout phổ biến nhất trong nam giới trên 40 tuổi.

Đây là một bệnh do rối loạn chuyển hóa, trong đó có tình trạng tăng acid uric máu và đây cũng là đặc điểm chính của bệnh. Bệnh thường gặp ở nam giới, có mối liên quan đến chế độ ăn uống của người bệnh như: ăn quá nhiều chất đạm, uống quá nhiều bia, rượu… Trong cơn gout cấp và điển hình, bệnh có một số đặc điểm như cơn đau thường khởi phát đột ngột vào nửa đêm với các dấu hiệu như sưng khớp ngón chân cái, đau dữ dội có cảm giác bỏng rát, đôi khi sốt cao, da trên chỗ khớp bị tổn thương, bị hồng hoặc đỏ tím.

Để phòng ngừa bệnh gout có thể thực hiện việc điều chỉnh chế độ ăn, vì bệnh có liên quan đến mức acid uric cao. Để tống các tinh thể acid uric ra khỏi cơ thể, mỗi ngày nên uống ít nhất 3 - 4 lít nước lọc.

Đau vai gáy, đau thắt lưng

Bệnh đau vai gáy là một dạng rối loạn thần kinh cơ gây ra bởi sự co cứng cục bộ, đột ngột do rối loạn chức năng thần kinh mà không do tổn thương xương, khớp, đốt sống cổ hay đĩa đệm.

Bệnh đau vai gáy thường xuất hiện vào buổi sáng, sau khi ngủ dậy, đây là bệnh có liên quan đến hệ thống cơ xương khớp và mạch máu vùng vai và gáy do rối loạn tuần hoàn gây thiếu máu ở vùng cột sống cổ, hoặc do sự kéo giãn dây thần kinh quá mức gây ra rối loạn chức năng của dây thần kinh chi phối nơi đây hoặc có thể là một sang chấn nhẹ nào đó cơ vùng vai gáy và gây ra co cứng và đau rút cục bộ.

Phần lớn các ca đau thắt lưng không có nguyên nhân bệnh lý mà chủ yếu bắt nguồn từ các tư thế sai trong sinh hoạt, lao động hoặc chơi thể thao, làm vùng cột sống thắt lưng cũng như những nhóm cơ chống đỡ làm làm việc quá sức sinh ra mệt mỏi.

Đau thắt lưng là biểu hiện chính của thoát vị đĩa đệm thắt lưng, thoái hóa cột sống thắt lưng do tuổi già, lao cột sống thắt lưng, viêm cột sống thắt lưng do vi trùng hoặc nguyên nhân khác, bệnh viêm dính cột sống, vẹo cột sống, ung thư di căn cột sống thắt lưng, gãy xương sống thắt lưng... Để phòng ngừa chứng đau thắt lưng có thể thực hiện các biện pháp tạm thời như hạn chế việc ngồi liên tục trong một thời gian dài, thường xuyên vận động, tập thể dục với các động tác uốn dẻo cột sống thắt lưng, thay đổi tư thế thường xuyên khi đứng trao đổi, thảo luận lâu, không nên ngồi ở tư thế lom khom, tránh ngồi ẹo sang một bên, tránh đứng cúi thắt lưng thẳng gối trong thời gian dài.

Thoái hóa khớp

Là tình trạng hư hỏng phần sụn, đệm giữa hai đầu xương, kèm theo phản ứng viêm ở đó và giảm sút lượng dịch nhầy giúp bôi trơn ổ khớp, gây đau và cứng khớp và hạn chế vận động. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở người trên 40 tuổi, nhất là sau 60 tuổi.

Một số yếu tố quan trọng liên quan đến thoái hóa khớp là tuổi tác, tình trạng béo phì, những chấn thương nhẹ và mạn tính ở khớp. Phạm vi thoái hóa khớp bao gồm cả khớp, sụn và cả những tổn thương thoái hóa tại các đĩa liên đốt. Bệnh được đặc trưng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ.

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

Nguyên nhân và biến chứng của bệnh vôi hóa cột sống

0 nhận xét
Bệnh vôi hóa cột sống hay còn gọi là gai cột sống là bệnh mà phát triển do xương hoặc sụn bị thoái hóa. Bệnh thường gặp ở những người trên 40 tuổi khi cột sống bắt đầu có dấu hiệu thoái hóa. Tỷ lệ nam mắc bệnh cao hơn nữ giới xong phụ nữ ở thời kỹ mãn kinh cũng hay bị vôi hóa cột sống.

Vôi hóa cột sống và chứng đau lưng
Đa số người trên 40 tuổi thường có những chồi xương này mà không biết và chỉ bị đau lưng rồi tìm ra khi chụp hình X-quang cơ thể trong khi chẩn đoán một bệnh nào khác. Tuy nhiên, 42% những trường hợp gai này một lúc nào đó có thể đưa tới đau cổ, lưng, lan ra tứ chi, yếu bàn tay bàn chân. Chữ Gai cũng không chính xác vì chồi xương trơn tru, dài vài mi li mét và là phần nhô ra của xương.


Nguyên nhân gây vôi hóa cột sống

- Gai xương có thể là kết quả của việc xương tự tu bổ sau khi liên tục bị chấn thương như sức ép, va chạm, cọ xát. .
- Khi đĩa liên sống hư hao, xẹp xuống, dây chằng giữa các đốt sống sẽ chùng giãn, khớp chuyển động nhiều hơn
- Phản ứng tự nhiên của cơ thể với sự chùng giãn này là làm cho dây chằng dầy lên để có sức giữ vững cột sống.
- Lâu ngày, calci sẽ tụ lại trên dây chằng và tạo ra các gai hoặc chồi xương.
- Dây chằng ở trong ống cột sống cũng có thể dày lên, ống thu hẹp, ép vào dây thần kinh và gây ra các dấu hiệu bệnh.
- Gai là một diễn tiến của sự lão hóa. Đĩa sụn và xương bị thoái hóa, hao mòn, mặt xương khớp gồ ghề và gai mọc ra. Đó là bệnh viêm xương khớp, thường thấy ở người tuổi cao.

Tóm lại các yếu tố di truyền, kém dinh dưỡng, nếp sống không lành mạnh, dáng điệu đứng ngồi xấu, chấn thương liên tục (do thể thao, tai nạn xe cộ) là những rủi ro đưa tới sự thoái hóa xương khớp và tạo gai nhanh hơn. Bệnh cũng có thể xuất hiện ở những người làm nghề khuân vác nặng, người quá kí tăng áp lực lên xương khớp, người có dáng đi đứng không ngay ngắn khiến cột sống xiêu vẹo.

Dấu hiệu vôi hóa cột sống

Đa số bệnh vôi hóa cột sống khi gai cọ xát với xương khác hoặc các phần mềm ở xung quanh như dây chằng, rễ dây thần kinh thì bệnh nhân thấy đau
- Đau thường xuất hiện ở cổ, thắt lưng, đặc biệt là khi bệnh nhân đứng hoặc đi.
- Đau lan xuống vai với nhức đầu khi gai ở cột sống cổ, lan xuống lưng, chân khi gai ở cột sống lưng.
- Cơn đau tăng khi cử động, giảm khi nghỉ do đó sẽ đưa tới giới hạn cử động ở các phần này.
- Khi dây thần kinh bị chèn ép, bệnh nhân cảm thấy đau ở tay và chân, cơ bắp yếu. Nếu ống tủy bị quá thu hẹp, bệnh nhân sẽ có rối loạn đại tiểu tiện, mất cảm giác.

Ngoài gai cột sống, các dấu hiệu vừa kể cũng thấy trong bệnh tiểu đường, rối loạn tuần hoàn ở tứ chi, u, viêm hoặc nhiễm trùng cột sống. Một số dấu hiệu của gai cột sống cũng tương tự như ở các bệnh viêm thấp khớp, chấn thương lưng, đứt đĩa liên sống. Cần phân biệt giữa vôi cột sống với Thoái hóa cột sống, đau thần kinh tọa, thoát vị đĩa đệm.

Biến chứng của vôi hóa cột sống

Bình thường vôi hóa cột sống xuất hiện nhiều hơn ở cạnh hoặc phía trước cột sống cho nên gai không cọ sát với rễ dây thần kinh hoặc với tủy sống ở phía sau, do đó gai ít gây ra các biến chứng nguy hiểm.

Tuy nhiên, một số trường hợp hiếm có thể xảy ra là gai gẫy, mảnh gẫy chạy vào giữa khớp xương, gây khó khăn cho sự co ruỗi khớp hoặc khi gai đè vào rễ dây thân kinh và gây ra mất cảm giác ở tay chân.

Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012

Chẩn đoán và điều trị viêm cơ cốt hóa

0 nhận xét
Viêm cơ cốt hóa (VCCH – Myositis Ossificans) là sự hình thành dạng xương trong cơ, là một rối loạn hiếm gặp liên quan đến quá trình canxi hóa (calcification) bất thường ở mô mềm (cơ, dây chằng). Thường gặp ở cánh tay hoặc cơ tứ đầu đùi.


1. Đặt vấn đề

Viêm cơ cốt hóa (VCCH – Myositis Ossificans) là sự hình thành dạng xương trong cơ, là một rối loạn hiếm gặp liên quan đến quá trình canxi hóa (calcification) bất thường ở mô mềm (cơ, dây chằng). Thường gặp ở cánh tay hoặc cơ tứ đầu đùi.

Nguyên nhân của VCCH còn nhiều vấn đề chưa sáng tỏ, có thể bệnh xuất hiện sau chấn thương gây ra khối máu tụ ở phần mềm nhưng nhiều trường hợp bệnh nhân hoàn toàn không có tiền sử chấn thương…

Điều trị VCCH còn gặp khó khăn, chưa có phác đồ điều trị thống nhất cho bệnh lý này. Hiện nay, cần phải có nghiên cứu sâu hơn về chẩn đoán và điều trị hiệu quả VCCH.

2. Minh họa bệnh án

Bệnh nhân nữ 52 tuổi, nghề nghiệp: Bác sĩ nội khoa. Trước đây không có tiền sử bệnh tật đáng quan tâm của cá nhân và gia đình, không có tiền sử chấn thương. Tự nhiên phát hiện đau ở đùi trái, không sốt, không sưng các khớp… Khám lâm sàng phát hiện một khối chắc không rõ giới hạn, ấn đau ở 1/3 trên trước ngoài đùi trái, không đỏ da tại chỗ. Siêu âm thấy có một khối không đồng nhất (kích thước 3,5 x 2 cm) sát xương đùi trái, có vôi hóa trong khối. Hình ảnh chụp MRI thấy khối sáng tín hiệu trên xung T2W phần trên cơ rộng giữa đùi trái.

3. Bàn luận
3.1. Về nguyên nhân VCCH

- Do chấn thương: Thường xảy ra ở vận động viên sau một chấn thương ban đầu, chấn thương gây ra khối máu tụ ở phần mềm, sau đó phát triển dần thành VCCH, cốt hóa thường hình thành sau chấn thương khoảng 2 – 4 tuần.
- Không do chấn thương: Cơ chế VCCH không do chấn thương chưa rõ chỉ được phát hiện có hình xương bất thường trên Xquang, trông giống như có một khối hóa xương trong mô mềm.
- Ngoài ra còn có thể do đột biến nhiễm sắc thể gây ra loạn sản tế bào sợi (là bệnh cực kỳ hiếm và có yếu tố di truyền). Một số tác giả cho rằng nguyên nhân có thể do nhiễm khuẩn, bỏng, rối loạn thần kinh cơ, bệnh ưa chảy máu (thiếu yếu tố X), uốn ván, lạm dụng thuốc…

3.2. Diễn biến bệnh
- VCCH về cơ bản là một phản ứng tăng sinh trong mô thường xuất phát từ một chất thương mô mềm. Không nhất thiết là có dẫn đến hình thành cốt hóa tại đó. Trong tuần đầu tiên, tăng sinh các tế bào sợi và mạch máu; Những tế bào trong mô nguyên thủy cùng với hoạt động phân bào mạnh (có thể giống như bệnh ác tính khi sinh thiết).
- Quá trình tiến triển của tổn thương, sẽ hình thành dần sự phân vùng điển hình:

3.2.1. Vùng lõi: Bao gồm nguyên bào sợi tăng sinh mạnh cùng đám xuất huyết và hoại tử cơ.

3.2.2. Vùng trung gian: Đặc trưng bởi nguyên bào xương với dạng xương non và các đảo sụn do cốt hóa.

3.2.3. Vùng ngoại vi: Gồm xương trưởng thành, thường tách biệt với các mô xung quanh bởi các cân cơ.

Khoảng từ tuần thứ 3 tới tuần thứ tư, canxi hóa và xương hóa hình thành bên trong khối “u”. Khoảng tuần thứ 6 – 8, hình thành một tổ chức xương đầy đủ.

3.3. Về chẩn đoán bệnh

3.3.1. Lâm sàng

Tự nhiên xuất hiện đau, không có triệu chứng của bệnh lý khớp cũng như nhiễm khuẩn tại chỗ, ở bệnh nhân trên, tự nhiên xuất hiện đau ở 1/3 trên ngoài đùi trái, đau tăng lên trong 3 tuần đầu.

3.3.2. Cận lâm sàng

+ Chụp cắt lớp vi tính: Cho thấy hình ảnh đặc hiệu VCCH điển hình ở vùng cơ rộng và khối tổn thương chưa hình thành tủy xương hoặc vỏ xương bất thường.

+ Chụp cộng hưởng từ (MRI): Cho thấy hình ảnh khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn tiến trển và dạng mô học của tổn thương. Giai đoạn đầu, hình ảnh T2W cho thấy khối “u” không đồng nhất với mật độ cao ở trung tâm. Giai đoạn muộn hơn, cốt hóa ở ngoại vị trở nên đặc hiệu hơn và trên hình ảnh T2W cho thấy một vùng đậm đặc có bờ viền mỏng bao quanh

+ Về mô học: Cần chẩn đoán phân biệt với u xương ác tính và giả u xương sợi ở các ngón, đó là:

VCCH thường cho thấy một kiểu phân vùng điển hình, với một lõi nguyên bào sợi và một vùng cốt hóa rộng ở ngoại vi trong khi phần lõi có xu hướng cho thấy các tế bào sợi sắp xếp một cách lỏng lẻo và không có dạng tế bào điển hình.

Ung thư xương: Thấy có sự tăng trưởng mất trật tự với một hình ảnh chia vùng ngược lại. Ở phụ nữ xương hoặc sụn chưa trưởng thành được thấy ở vùng ngoại vi và giải xương trưởng thành thấy ở vùng trung tâm và cũng thấy các tế bào tăng sinh với hình ảnh tể bào ác tính.

3.4. Về điều trị

Hiện nay tài liệu đề cập toàn diện về điều trị VCCH còn ít và chưa thống nhất.

Theo các tài liệu kinh điển, điều trị VCCH tập trung giải quyết: làm giảm xuất huyết, nghỉ ngơi, bất động, chườm đá, đặt cao chân, dùng thuốc giảm đau, chống viêm. Không điều trị bằng nhiệt, siêu âm kéo dài, xoa bóp, làm căng cơ và vận động mạnh để tránh gây thêm chảy máu, như vậy sẽ làm tăng nguy cơ phát triển cốt hóa. Điều trị trước hết và cơ bản là bảo tồn, cho đến khi sự canxi hóa bớt dần, các triệu chứng thuyên giảm, khi đó có thể tiến hành phẫu thuật loại bỏ, tuy nhiên thành công của phẫu thuật còn hạn chế.

Nếu cắt bỏ sớm khi khối cốt hóa chưa trưởng thành (mature) thì nhiều khả năng sẽ phát triển trở lại (thời gian “trưởng thành” khoảng 3 – 6 tháng). Vì vậy hầu hết các phẫu thuật viên phải đợi từ 6 – 12 tháng mới có thể xem xét loại bỏ.

* Phương pháp điều trị bằng điện di ion axit axetic:

- Điện di dung dịch axit acetic 2% với dòng điện một chiều 4 mA trong 20 phút.

- Xung siêu âm cường độ 1,5W/cm2 trong 08 phút.

- Vận động nhẹ nhàng trong 05 phút trong giới hạn không gây đau (mild passive range of motion).

Thời gian điều trị: 3 lần/tuần x 3 tuần liên tiếp.

* Phương pháp điện di thuốc (electrophoresis): là phương pháp dùng dòng điện một chiều để di chuyển một số ion thuốc điều trị vào cơ thể hoặc lấy các ion thuốc có hại ra khỏi cơ thể.

4. Kết luận

VCCH không do chấn thương là một dạng bệnh lý hiếm gặp, chưa rõ nguyên nhân gây bệnh.

Chẩn đoán chủ yếu dựa vào chụp CLVT, MRI và mô bệnh học. Việc điều trị chưa có một phác đồ thống nhất, mỗi phương pháp đều có thể tác dụng nhất đinh, thời gian theo dõi 6 -12 tháng.

Bệnh cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.

Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

Chữa vôi hóa cột sống như thế nào?

0 nhận xét
Bệnh vôi hóa cột sống (hay thoái hóa cột sống, gai cột sống) là các từ mà các bác sĩ hay dùng để chỉ những tình trạng thoái hóa của các dây chằng liên kết các thân đốt sống, các đĩa đệm nằm giữa các thân đốt sống.

Phương pháp chữa vôi hóa cột sống

Theo thời gian cũng như tùy thuộc vào mức độ làm việc lúc trẻ mà các đĩa đệm sẽ bị thoái hóa mất nước, các dây chằng bao bọc đĩa đệm bị rách làm đĩa đệm chui ra sau vào ống sống chứa tủy sống mà người ta gọi là thoát vị đĩa đệm.

Tình trạng này càng nặng thêm khi các dây chằng dọc theo ống sống bị thoái hóa lắng tụ can xi dày lên càng làm hẹp ống sống gây chèn ép tủy sống, chèn ép các rễ thần kinh gây đau và yếu liệt chi.


Khi đó các bác sĩ sẽ dùng phương pháp phẫu thuật cắt bảng sống hay nói nôm na là lấy đi các thành phần chèn ép như đĩa đệm lồi ra, các dây chằng bị vôi hóa dày lên để giải áp cho tủy sống tránh tình trạng bị chèn ép.

Như vậy nếu một phẫu thuật thành công nghĩa là bệnh nhân không bị liệt do biến chứng cuộc mổ thì việc có con cái là chuyện bình thường không ảnh hưởng gì cả.

Việc bao lâu xuất viện tùy thuộc vào bác sĩ điều trị đánh giá cuộc mổ như thế nào. Trung bình 7-10 ngày là có thể xuất viện, mổ nội soi hay với đường mổ nhỏ có thể xuất viện sớm hơn.

Trong tháng đầu tiên bệnh nhân thường được cho mang nẹp lưng khi đi đứng để đỡ 1 phần cho cột sống cho đến khi mô lành hẳn. Sau khi lành mô ( vết thương lành), là bắt đầu giai đoạn tập vật lý trị liệu. Giai đoạn này cần có người kỹ thuật viên vật lý trị liệu hướng dẫn tập.

Về phần chăm sóc bệnh nhân sau mổ thoát vị đĩa đệm thì tùy giai đoạn. Giai đoạn sớm chủ yếu là chăm sóc vết thương, tập tại giường các động tác tay chân, tập đỡ ngồi dậy, săn sóc và vệ sinh cá nhân, chườm lạnh nơi mổ để chống viêm và chống phù nề.

Sau giai đoạn lành vết thương chủ yếu là giúp người bệnh tập các động tác vật lý trị liệu do các nhân viên hướng dẫn. Tùy theo cuộc mổ mà bệnh nhân được cho đi lại, ngồi dậy nhưng thông thường nhất là hạn chế các động tác này.

Việc phẫu thuật chỉ lấy đi phần đĩa đệm chèn ép mà không thể điều chỉnh các tư thế xấu gây đau lưng, do vậy bệnh nhân cần phải tránh các động tác gây đau lưng như cúi khom lưng, tư thế nửa, nằm nửa ngồi gây mất độ cong sinh lý cột sống, ngồi xổm hay ngồi làm việc quá lâu với lưng cong.v.v và một trong số những nguyên nhân tại sao sau khi phẫu thuật bệnh nhân vẫn còn đau chính là không bỏ được các tư thế xấu của lưng.

Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2012

Gai xương cột sống thắt lưng, một biểu hiện của thoái hóa cột sống

0 nhận xét
Gai xương, vôi hóa cột sống là một biểu hiện của thoái hóa cột sống thắt lưng. Xin cung cấp một số kiến thức cơ bản về bệnh này như sau.

GAI XƯƠNG CỘT SỐNG THẮT LƯNG, MỘT BIỂU HIỆN CỦA THOÁI HÓA CỘT SỐNG
Gai cột sống thắt lưng và một số biểu hiện của thoái hóa cột sống


Tại sao có hiện tượng thoái hóa cột sống?

Thoái hóa cột sống thắt lưng chỉ là một biểu hiện của một trong những bệnh thoái hóa khớp. Thoái hóa khớp là một bệnh mạn tính, đặc trưng bởi tổn thương thoái hóa tiến triển của sụn khớp và đĩa đệm gây đau, biến dạng khớp, nhưng hiếm khi có biểu hiện viêm kèm theo. Bệnh này còn được đặt các tên khác như viêm xương khớp, thấp khớp thoái hóa hay hư xương khớp. Bệnh gặp nhiều ở những người cao tuổi và tỷ lệ mắc bệnh tăng dần theo tuổi tác. Nhưng ngày nay, do môi trường sống ngày càng ôi nhiễm, thức ăn không đảm bảo, cộng với việc lười vận động do tính chất công việc, ngồi hàng giờ bên máy vi tính là cho bệnh thoái hóa cột sống ngày càng trẻ hóa.

Nguyên nhân chính là do tế bào sụn bị lão hóa, làm giảm tổng hợp các thành phần của sụn. Các yếu tố cơ học như sang chấn, béo phì cũng gây áp lực quá tải và kéo dài lên sụn khớp và đĩa đệm liên đốt sống. Ngoài ra, các dị tật bẩm sinh cũng tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh thoái hóa khớp xuất hiện. Bình thường, sụn khớp được cấu tạo chủ yếu bởi nước, collagen và proteoglycan. Khi sụn của đĩa đệm bị thoái hóa, tế bào sụn bị mất hoặc giảm chức năng khiến cho quá trình tái tạo sụn bị rối loạn, làm lực phân bố trên thân đốt sống không đều, khiến cho xương mâm đốt sống phải tăng chịu tải, kết quả là hình thành các gai xương ở rìa ngoài thân đốt sống. Gai xương có hình thô và đậm đặc.

Điều đặc biệt là phì đại xương, dẫn đến tạo thành các gai xương có thể xuất hiện ngay từ giai đoạn sớm của bệnh, thường kèm theo các thay đổi cấu trúc khớp khác như mòn sụn, giảm chiều cao đĩa đệm liên đốt sống và dày xương dưới sụn. Các thay đổi cấu trúc này có thể nhìn thấy rất rõ trên phim chụp X-quang cột sống thắt lưng thẳng và nghiêng. Theo nghiên cứu của Framingham ở Mỹ, tỷ lệ thoái hóa khớp có triệu chứng lâm sàng là 6% ở người trên 30 tuổi. Những biểu hiện trên Xquang còn cao hơn nhiều (20-30%) ở những người trong độ tuổi từ 55-65.

Đặc điểm lâm sàng của thoái hóa cột sống thắt lưng

Có ba thể lâm sàng chính là đau lưng cấp, đau lưng mạn tính và đau thần kinh tọa. 

Đau lưng cấp 
Thường gặp ở lứa tuổi 30-40. Đau xuất hiện sau một động tác mạnh, quá mức, đột ngột, trái tư thế. Đau tăng khi hắt hơi, rặn, thay đổi tư thế, đặc biệt là khi có phồng đĩa đệm gây chèn ép dây thần kinh tọa hoặc gây ép rễ thần kinh.

Đau lưng mạn
Hay gặp ở người trên 40 tuổi. Đau âm ỉ, đau dọc xuống chân và đùi, đau tăng khi vận động, thay đổi thời tiết. Đặc biệt là đau gây hạn chế vận động (khó quay, cúi...). Chụp Xquang cột sống thường thấy dấu hiệu mọc gai xương đốt sống, xơ xương dưới sụn, có các ổ khuyết xương dưới sụn.

Đau thần kinh tọa 
Thường bệnh nhân đã có tiền sử đau thắt lưng mạn tính. Khi bệnh nhân vận động đột ngột hay bê, mang vác vật nặng thì xuất hiện dấu hiệu ép thần kinh. Để chẩn đoán, bệnh nhân cần phải chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ cột sống thắt lưng.

Điều trị thoái hóa cột sống thắt lưng: Không có thuốc chữa quá trình thoái hóa khớp. Cần tiến hành điều trị khi có triệu chứng. Đầu tiên, trong các đợt cấp của bệnh cần phải sử dụng các thuốc giảm đau chống viêm không steroid, phối hợp với các thuốc giảm đau đơn thuần, thuốc giãn cơ. Thuốc giảm đau chống viêm không steroid là nhóm thuốc được sử dụng nhiều nhất. Trước đây người ta thường sử dụng các thuốc chống viêm không steroid kinh điển như aspirin, diclofenac. Tuy nhiên các thuốc này có tác dụng kích ứng niêm mạc dạ dày, gây viêm loét, thủng dạ dày, xuất huyết tiêu hóa. Hiện nay thực tế nghiên cứu và áp dụng lâm sàng đã chứng minh rằng điều trị bệnh này theo Đông y là hiệu quả nhất, và có thể điều trị tận gốc bệnh mà lại rất an toàn với thận và dạ dày.

Người ta còn dùng các thuốc làm chậm quá trình thoái hóa, thậm chí có thể cải thiện được cấu trúc khớp bị thoái hóa. Cũng có thể tăng cường dinh dưỡng sụn bằng cao động vật, thuốc nội tiết... Ngoài ra cần áp dụng các phương pháp vật lý trị liệu như xoa bóp, sử dụng vật lý trị liệu bằng nhiệt, bằng nước...

Phòng bệnh 
Để phòng bệnh có hiệu quả, trước tiên cần phát hiện sớm các dị tật của xương, khớp, cột sống để điều trị kịp thời. Những người béo phì cần có chế độ ăn hợp lý để giảm cân. Cần tập thể dục thể thao ở mức độ sức khỏe cho phép. Trong lao động và sinh hoạt cần tránh những tư thế xấu, cũng như các động tác quá mạnh, đột ngột. Kiểm tra sức khỏe định kỳ những người lao động nặng.

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

Các phương pháp chữa bệnh vôi hóa cột sống

0 nhận xét
Bệnh vôi hóa cột sống là một bệnh thuộc nhóm bệnh thoái hóa cột sống . Đây là tình trạng lắng tụ canxi trên các dây chằng bám vào thân đốt sống hay các mấu gai, mấu ngang của cột sống làm cột sống có gai. Nguyên nhân sâu xa của bệnh là do thoái hóa khớp gây ra. Điều trị bệnh bằng cách vận động cơ thể tránh các chấn thương lên xương khớp và chế độ dinh dưỡng đầy đủ.

Các phương pháp điều trị

Đây là quá trình tự nhiên lão hóa theo thời gian, có thể kèm theo các yếu tố thúc đẩy như quá trình viêm do viêm nhiễm trùng, viêm do các yếu tố khác như bệnh tự miễn hay viêm do các cơ và dây chằng vùng cột sống bị quá tải do việc nặng hay do tư thế.bệnh

Điều trị cơn đau lưng là sự phối hợp của nhiều chuyên khoa như chỉnh hình, vật lý trị liệu, khoa giảm đau và với những cơn đau mãn tính kéo dài quá lâu nhưng đôi khi cần được tư vấn về tâm lý.

Phương pháp nội khoa:

Tức là uống thuốc và phối hợp với các chuyên khoa như trên luôn là phương pháp được chọn lựa đầu tiên. Tuy nhiên để có một phương pháp điều trị chính xác thì phải có chẩn đoán chính xác.

Nếu gai không gây đau, không cần điều trị. Bệnh nhân tìm tới bác sĩ khi các cơn đau và các khó khăn khi cử động khiến cho họ phải giới hạn các hoạt động bình thường và ảnh hưởng tới nếp sống. Khi gai gây đau thì sự điều trị tập trung ở nguyên nhân gây ra gai, dấu hiệu bệnh hoặc sự hiện diện của gai.

Với nguyên nhân, việc giảm cân để giảm sức nặng lên xương khớp là điều cần làm.

Điều trị dấu hiệu đau gồm có nghỉ ngơi khi sưng viêm, chườm nước đá, uống thuốc chống viêm không có steroid như paracetamol, ibuprofen.

Dùng thuốc:

Trong trường hợp đau nhiều, bác sĩ có thể chích thuốc steroid tại chỗ để giảm viêm và đau của cơ bắp. Thuốc viên steroid là thuốc chống viêm rất mạnh và rất công hiệu để trị viêm. Tuy nhiên, thuốc có nhiều tác dụng không muốn nếu dùng không đúng cách và không có chỉ định của bác sĩ.

Phẫu thuật:

Gai cột sống có thể được cắt bỏ với vi phẫu thuật rất chính xác.Nhưng sau khi cắt, gai có thể mọc trở lại. Cắt bỏ chỉ được chỉ định khi gai chèn ép vào hệ thần kinh, gây ra các dấu hiệu như tê chân tay, rối loạn đại tiểu tiện, đau lan tới tứ chi và ảnh hưởng xấu tới sinh hoạt thường nhật.

Châm cứu:

Châm cứu có thể làm giảm đau một phần nào ở phần mềm nhưng không có tác dụng vào tình trạng viêm sưng cũng như khi gai tác động lên rễ dây thần kinh não tủy. Vật lý trị liệu, thoa bóp, luyện tập xương khớp, thực hành yoga cũng giúp giảm ảnh hưởng của gai.

Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2012

Thuốc chữa đau cột sống thắt lưng hiệu quả tốt nhất

0 nhận xét
Bệnh lý đau cột sống thắt lưng thường gặp với tần xuất 80% xảy ra ở tất cả mọi người trong đời của họ. Nguyên nhân của đau cột sống thắt lưng rất nhiều, nếu không kể các bệnh viêm nhiễm và chấn thương như do tai nạn giao thông hay té ngã thì đau lưng có thể do các nguyên nhân sau:
- Tổn thương mô mềm như gân cơ, dây chằng do làm việc quá sức
-  Lồi hoặc thoát vị đĩa đệm cấp tính do lao động sai tư thế
-  Thoái hóa đĩa đệm và mấu khớp ở người lớn tuổi dễ dẫn đến bệnh lý thoát vị đĩa đệm và mất vững cột sống
Tính về thời gian bị đau lưng thì chia làm đau thắt lưng cấp tính và mãn tính:
+  Đau thắt lưng cấp tính: đau < 4 tuần, thường do gắng sức hoặc do lao động sai tư thế
+  Đau thắt lưng mãn tính : đau xuất hiện từ từ và tăng dần thường lâu hơn 4 tuần

Bài thuốc nam gia truyền chữa bệnh đau cột sống thắt lưng hiệu quả tốt nhất

Bài thuốc gia truyền điều trị gồm 2 loại thuốc chính là: Bài Thuốc Uống và Bài Thuốc Đắp. Bệnh nhân được tặng kèm 1 bịch Thuốc Ngâm để xoa bóp với tác dụng là thuốc phụ trợ cho 2 loại thuốc trên.
I. Bài Thuốc Uống: Thuốc cơ sở chúng tôi sử dụng điều trị là thuốc nam chiết xuất hoàn toàn từ thảo dược tươi ở dạng nước. Thuốc được bảo quản trong ngăn mát tủ lạnh. Thuốc hoàn toàn không gây các phản ứng phụ vì được chiết xuất từ nam dược lành tính.
II. Bài Thuốc Đắp: Thuốc được bào chế ở dạng bột. Trộn 100g ngải cứu cùng 2 chén rượu (cỡ như chén uống trà). Xào nóng rồi trộn bột trên đun cho chín kỹ. Sau đó đổ ra khăn mỏng chườm nhanh vào vùng đau (tránh bỏng da). Khi còn ấm thì buộc lại chỗ đau đến khi hết hơi ấm thì tháo ra. Ngày dùng 2 lần: Sau khi dùng buổi sáng thì giữ hỗn hợp lại để buổi tối dùng tiếp.
Thuốc ngâm xoa bóp (Thuốc phụ): Là bài thuốc dẫn, phụ trợ cho hai bài thuốc trên được tặng kèm.
Với bài thuốc nam gia truyền bào chế từ dược liệu của Việt Nam đã điều trị hiệu quả bệnh đau lưng mà không cần phẫu thuật, tác dụng chính của bài thuốc:
- Kháng viêm, đào thải độc tố viêm nhiễm do quá trính thoái hóa đốt sống cổ, thoát vị đốt sống lưng gây nên
- Tán thấp, hành thủy, hoạt huyết tăng cường lưu thông máu.
- Bồi bổ dinh dưỡng cho hệ thống đốt sống lưng bị tổn thương giúp phục hồi lại hệ thống đốt sống lưng.
- Bồi bổ dinh dưỡng, giúp hồi phục cho hệ thống thần kinh bị tổn thương
Thuốc hoàn toàn không gây các phản ứng phụ vì được chiết xuất từ nam dược lành tính. Ngay cả bệnh nhân mắc các bệnh như đau dạ dày (đau bao tử), tiểu đường, cao huyết áp, tim mạch vẫn có thể dùng thuốc bình thường mà không lo phản ứng phụ. Bệnh nhân có thể sử dụng kèm với cả thuốc tây điều trị các bệnh đó. Để đạt hiệu quả của điều trị bệnh nhân phải dùng tối thiểu là 9 thang dùng trong 9 ngày. Tất cả các bệnh nhân khi đến với gia đình chúng tôi hầu như đều đạt hiệu quả tốt. Tuy nhiên không phải 100% bệnh nhân đều khỏi hẳn, có những bệnh nhân đỡ được 70-80% họ đều coi đó là kết quả mong đợi, bởi vì họ đã từng điều trị ở những bệnh viện hàng đầu, sử dụng liệu pháp điều trị tích cực mà vẫn không đem lại kết quả. Trong thực tế điều trị, mặc dù số lượng bệnh nhân không hợp với thuốc rất ít những vẫn còn những bệnh nhân sau khi sử dụng 1 liệu trình đầu tiên mà không có biểu hiện thuyên giảm thì gia đình tôi cũng khuyên các bệnh nhân đó dừng sử dụng, vì cơ địa không hợp với thuốc.
Qua kinh nghiệm và thực tế điều trị cho thấy thời gian điều trị dài hay ngắn phụ thuộc vào cơ địa của mỗi người. Có những bệnh nhân chỉ với một liều trình 9 ngày điều trị đã đạt hiệu quả, tuy nhiên cũng có những bệnh nhân phải sử dụng tới 2-3 liệu trình thậm chí 5-6 liệu trình mới đạt hiệu quả.

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012

Vôi hóa cột sống phải cắt bảng sống

0 nhận xét
Vôi cột sống (thoái hóa cột sống, gai cột sống) là từ ngữ đơn giản mà các bác sĩ hay dùng để chỉ tình trạng thoái hóa của các dây chằng liên kết các thân đốt sống, các đĩa đệm nằm giữa các thân đốt sống.

Theo thời gian cũng như tùy thuộc vào mức độ làm việc lúc trẻ mà các đĩa đệm sẽ bị thoái hóa mất nước, các dây chằng bao bọc đĩa đệm bị rách làm đĩa đệm chui ra sau, vào ống sống chứa tủy sống mà người ta gọi là thoát vị đĩa đệm.


VÔI HÓA CỘT SỐNG PHẢI CẮT BẢNG SỐNG

Một ca mổ nội soi cột sống tại Bệnh viện Việt Đức, Hà Nội.
Tình trạng này càng nặng thêm khi các dây chằng dọc theo ống sống bị thoái hóa lắng tụ canxi dày lên càng làm hẹp ống sống gây chèn ép tủy sống, chèn ép các rễ thần kinh gây đau và yếu liệt chi. Khi đó các bác sĩ sẽ dùng phương pháp phẫu thuật cắt bảng sống hay nói nôm na là lấy đi các thành phần chèn ép như đĩa đệm lồi ra, các dây chằng bị vôi hóa dày lên để giải áp cho tủy sống, tránh tình trạng bị chèn ép.

Trung bình 7 - 10 ngày sau mổ, bệnh nhân có thể xuất viện, mổ nội soi hay với đường mổ nhỏ có thể xuất viện sớm hơn. Trong tháng đầu tiên bệnh nhân thường được cho mang nẹp lưng khi đi đứng để đỡ một phần cho cột sống cho đến khi mô lành hẳn. Sau khi lành mô là bắt đầu giai đoạn tập vật lý trị liệu.

Việc phẫu thuật chỉ lấy đi phần đĩa đệm chèn ép mà không thể điều chỉnh các tư thế xấu gây đau lưng, do vậy bệnh nhân cần phải tránh các động tác gây đau như cúi khom lưng, tư thế nửa, nằm nửa ngồi gây mất độ cong sinh lý cột sống, ngồi xổm hay ngồi làm việc quá lâu với lưng cong... và một trong số những nguyên nhân tại sao sau khi phẫu thuật bệnh nhân vẫn còn đau chính là không bỏ được các tư thế xấu của lưng.

Tốt nhất, khi có dấu hiệu đau bất thường ở thắt lưng, bệnh nhân nên đi khám sớm để xác định nguyên nhân gây bệnh sớm, ở giai đoạn đầu bệnh vôi hóa cột sống điều tri theo Đông y sẽ rất hiệu quả do đi vào căn nguyên của bệnh để điều trị, đặc biệt là rất an toàn không gây tác dụng phụ.

Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012

Cách điều trị bệnh khô khớp

0 nhận xét
Khi cuộc sống ngày càng phát triển kéo theo những bộn bề của cuộc sống. Con người cũng theo đó mà hoạt động, lao động cũng nhiều hơn. Xã hội phát triển cũng kéo theo đó là tình trạng ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu. Mỗi người trong chúng ta luôn luôn có nguy cơ đối mặt với bệnh tật.

Bệnh khớp là bệnh dễ gặp hiện nay. Nhất là ở độ tuổi trung niên thì càng dễ mắc. Khi các khớp xương bắt đầu có hiện tượng thoái hóa. Các bạn nên bổ sung canxi để xương chắc khỏe.

Khô khớp là hiện tượng các khớp khi vận động phát ra tiếng động lạo xạo hay lục khục. Đây là một triệu chứng của bệnh lý khớp. Khô khớp có thể chỉ biểu hiện đơn độc. Nhưng khô khớp cũng có thể kèm theo các triệu chứng khác của bệnh khớp như sưng, nóng, đỏ khớp, đau khớp, hạn chế vận động. Ở Khoa Khớp, Bệnh viện Bạch Mai hàng ngày có tới 100 bệnh nhân khớp mắc chứng khô khớp đến khám và điều trị.


THUỐC TRỊ BỆNH KHÔ KHỚP


Vì sao bị khô khớp?

Có 3 nguyên nhân chính gây chứng khô khớp là tổn thương sụn khớp, tổn thương xương dưới sụn và giảm tiết dịch khớp. Khi sụn khớp bị tổn thương, bề mặt khớp không còn trơn nhẵn nữa mà trở nên xù xì, thô ráp, lồi lõm. Theo thời gian, sụn khớp ngày càng mỏng đi, nứt nẻ..., để trơ lại lớp xương nằm bên dưới. Các ụ xương, gai xương xuất hiện trên bề mặt xương có thể cọ xát lên lớp màng xương ở các đầu xương, gây ra tiếng lạo xạo và kèm theo đau. Thoái hóa khớp là nguyên nhân chính dẫn đến khô khớp. Đây là một bệnh rất phổ biến, chiếm tỷ lệ 30% bệnh nhân khớp.

Những người hay mắc chứng khô khớp thường là: người trên 60 tuổi; những người trẻ tuổi không được cung cấp đủ vitamin và khoáng chất; ngoài ra, những người uống nhiều rượu bia, hút thuốc lá, những người béo phì, người thường xuyên phải lao động nặng do các khớp bị đè nén nhiều hay sự thay đổi hormon như estrogen... cũng dễ bị khô khớp.

Điều trị bệnh khô khớp thế nào?

Đầu tiên là phải phát hiện nguyên nhân bệnh gây chứng khô khớp. Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời thì có thể ổn định bệnh trong thời gian dài. Thứ hai là phải dùng các thuốc giúp phục hồi khớp bị tổn thương. Đó là các thuốc chống thoái hóa khớp, chứa các thành phần của sụn khớp như collagen týp 2, glucosamin, chondroitin, axit hyaluronic.

Hiện nay, có cả liệu pháp tiêm acid hyaluronic nội khớp, thường là vào khớp gối, vai. Phương pháp tiêm này nhằm cung cấp acid hyaluronic là một thành phần của dịch khớp, giúp bôi trơn khớp, giảm ma sát, giảm xóc, do vậy, làm khớp vận động trơn tru. Thông thường, bệnh nhân có thể được tiêm 3-5 mũi tiêm vào một khớp, mỗi mũi tiêm cách nhau 1 tuần. Một số nghiên cứu cho thấy, tác dụng giảm đau, bôi trơn khớp kéo dài đến 6 tháng hoặc 1 năm do thuốc tiêm vào kích thích các tế bào sụn và tế bào màng hoạt dịch khớp sản sinh ra acid hyaluronic nội sinh.

Ngoài ra, cần bổ sung canxi vitamin D, các khoáng chất khác như magiê, vitamin K hàng ngày qua các thực phẩm như sữa, rau, trái cây để giúp xương chắc khỏe. Nếu cần thiết có thể bổ sung mỗi ngày 1 viên đa sinh tố chứa magiê, vitamin K, acid folic, vitamin B6 và B12. Chúng ta cần tích cực điều trị và dự phòng khô khớp càng sớm thì kết quả càng cao và càng đỡ tốn kém.

Cách nào để phòng ngừa và hạn chế khô khớp?

Chúng ta có thể làm chậm quá trình khô khớp bằng chế độ ăn uống và tập luyện, vận động đúng mức, phù hợp tình trạng sức khỏe.
Trong chế độ ăn, bạn nên ăn các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, khoáng chất như cá biển, mực, tôm, cua, rong biển hay những loại rau mồng tơi, đậu. Bạn cần hạn chế đồ uống có cồn, bỏ hút thuốc lá, thuốc lào. Bạn cũng cần bảo vệ khớp khỏi các chấn thương.

Trong sinh hoạt hàng ngày, cần tránh các tư thế ngồi xổm, hạn chế lên xuống cầu thang, tránh cúi xuống nhấc vật nặng hay ngồi hàng giờ cong vẹo người ở tư thế xấu khi thêu thùa, may vá, viết lách. Bạn cũng không nên làm động tác bẻ các ngón tay kêu lắc rắc vì sẽ làma chấn thương dây chằng hay mặt khớp. Không nên tập thể hình với mang vác tạ quá nặng ở tư thế đứng hay ngồi. Tránh va chạm mạnh khi chơi các môn thể thao đối kháng như đá bóng, bóng rổ. Bạn nên tập thể dục đều đặn. Những lúc nghỉ giải lao giữa giờ làm việc, bạn nên vươn người, co duỗi tay, chân tại chỗ, làm các bài tập thể dục nhẹ nhàng.

Các bài tập theo sách Suối nguồn tươi trẻ hay tập Thái cực quyền, tập khí công rất có ích cho sự mềm dẻo, linh hoạt của khớp. Trước khi tập thể thao, bạn nên thường xuyên xoa bóp, khởi động cơ thể. Cũng cần có chương trình luyện tập thể thao tăng dần từ nhẹ đến nặng, từ đơn giản đến phức tạp. Khi tập luyện, nên tiến hành từ từ, không tập quá sức. Không nên nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Những môn thể thao có lợi cho xương khớp là đi bộ, đi xe đạp, bơi lội.

Bài đăng phổ biến

 

Bài thuốc nam trị đau nhức xương khớp an toàn và hiệu quả. Copyright 2008